Công Nghệ Mạng Ngn Là Gì ? Định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích Giải Pháp Mạng Ngn Của Cdit
Tăng trưởng và kinh doanh mạng thế hệ mới NGN đã và đang là vấn đề nóng trong ngành viễn thông vài năm gần đây. Bài viết này trình diễn tóm tắt các nghiên cứu thẩm định về thử thách và thời cơ nhưng NGN có thể tạo ra cho nhà khai thác viễn thông. Bài viết tập trung vào các vấn đề nổi cộm, gây ra nhiều tranh luận của NGN như lúc nào nên triển khai NGN, Softswitch hay IMS, các vấn đề của chuyển đổi và kinh doanh NGN.
Đang xem: Ngn là gì
1. Giới thiệu
Mạng thế hệ mới (Next Generation Network – NGN) mở màn được đề xuất, nghiên cứu thảo luận nhằm chuẩn hóa từ khoảng năm 2003. NGN ko phải là một ý tưởng cách mệnh, NGN là sự tăng trưởng thế tất của quá trình tiến hóa công nghệ mạng phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Có rất nhiều động lực xúc tiến quá trình tiến hóa này: nhu cầu của người dùng điện thoại chuyển từ cách chỉ dùng các dịch vụ do doanh nghiệp hỗ trợ điện thoại truyền thống hỗ trợ sang toàn cầu Internet mở với khối lượng nội dung và năng lực liên lạc khổng lồ; sự tụ hội thế tất của các mạng liên lạc trước đây chỉ dùng cho các mục tiêu riêng (ví dụ mạng PSTN nhằm hỗ trợ liên lạc điện thoại cố định, mạng GSM dành cho điện thoại di động) sang mạng sử dụng giao thức IP hoàn toàn (all-IP) có thực chất đa tính năng, có mặt tại mọi nơi mọi chỗ và chi phí thấp; sự tách biệt phần truyền tải của mạng và các dịch vụ chạy trên lớp truyền tải, cho phép thông minh ra các dịch vụ mới độc lập với lớp truyền tải, gây tác động lớn tới cạnh tranh và giá cước dịch vụ…
Ảnh minh họa: nextgenerationnetwork.ie
Trong mạng điện thoại truyền thống PSTN, kết nối liên lạc điện thoại dùng chuyển mạch kênh sử dụng một đường kết nối vật lý giữa người dùng tại hai đầu của mạng. Đường kết nối này bị chiếm dụng và phải được đảm bảo trong suốt quá trình liên lạc. Trên Internet, dữ liệu được truyền tải với giao thức IP. Thông tin được cắt nhỏ vào các gói dữ liệu chứa đầy đủ địa chỉ IP của bên gửi và bên nhận. Các gói thông tin được gửi tới các thiết bị định tuyến (router) tiếp nối nhau tới lúc gói dữ liệu cuối cùng được gửi tới bên nhận. Các gói dữ liệu ko nhất quyết phải đi theo cùng một đường tới bên nhận, vì vậy mạng IP cho phép thiết lập liên lạc ko cần đường kết nối cố định. Mỗi loại mạng đều có các điểm mạnh và yếu riêng. Mạng NGN được xây dựng với mục tiêu liên kết các tính năng tốt nhất của hai mạng PSTN và Internet.
Tuy nhiên, mạng PSTN được xây dựng và khai thác trong thế kỷ trước sẽ ko thể thay thế được trong một sớm một chiều. Gác lại một bên những vấn đề về công nghệ của NGN – vốn đang được tăng trưởng, chuẩn hóa và chưa thật sự chín muồi – bài viết này tập trung vào các thử thách nhưng các nhà khai thác viễn thông sẽ phải đương đầu lúc lên kế hoạch triển khai mạng NGN trong tương lai. Nên hay ko, lúc nào nên mở màn tiến tới NGN, lộ trình chuyển đổi sang NGN, phải khắc phục như thế nào với người dùng cũ, cơ sở hạ tầng cũ, cơ cấu tổ chức cũ. Triển khai NGN ko thuần tuý là lắp đặt và khai thác mạng, nó kéo theo hàng loạt các vấn đề liên quan mật thiết như cơ cấu lại thứ tự khai thác, kinh doanh trong môi trường mới, thiết lập lại các quy định kết nối trong và ngoài nước, tính cước, quản lý nhà nước… Chuyển đối sang NGN yêu cầu sự chuyển mình và đổi mới của toàn thể hệ thống. Tuy nhiên, ko thể ko nhắc tới vô số thời cơ nhưng NGN có thể mang tới như giữ chân người dùng, tăng khả năng cạnh tranh, tăng lên hiệu suất khai thác vận hành, giữ và tạo ra các nguồn lợi nhuận mới… Các nhà khai thác cần hiểu rõ và vận dụng một cách hợp lý, đúng thời kì và vị trí để thu lợi nhiều nhất từ các thời cơ nhưng NGN mang tới.
2. Những điểm đáng xem xét của NGN
2.1. NGN là gì?
NGN là một khái niệm rộng, khó khái niệm một cách xác thực, ngắn gọn. Ngay cả các diễn đàn chuẩn hóa lớn nhất cũng có cách tiếp cận NGN đôi chút không giống nhau. Tính từ lúc tên gọi, Korea Telecom triển khai xây dựng mạng thế hệ mới với tên gọi Broadband convergence Network (BcN), British Telecom đặt tên mạng là 21CN, Telekom Global Network (TGN) là tên mạng NGN của Deutsche Telekom… Lúc sử dụng khái niệm NGN, một số người muốn nói đến tới quá trình chuyển hóa từ PSTN sang mạng trên nền IP, một số khác muốn nói tới việc sử dụng công nghệ IP trên phần nào đó của mạng hay cuộc gọi . Dưới một góc nhìn nào đó các cách hiểu này đều có lý do có thể chập thu được.
NGN có thể tăng trưởng, sử dụng nhiều công nghệ mạng bao gồm mạng quang, cáp, cố định, di động… Mục tiêu là chuyển đổi từ “mạng đơn dịch vụ” sang “mạng đa dịch vụ”. Đối với các nhà khai thác, NGN là phương tiện quan trọng để giữ vị thế cạnh tranh trên thị trường trong toàn cầu tụ hội của dịch vụ và nội dung, lúc doanh thu từ điện thoại truyền thống ngày càng suy giảm. Trên thị trường viễn thông, động lực của NGN là nhu cầu dịch vụ điện thoại, dữ liệu, video tích hợp, mọi lúc mọi nơi, trên mạng cố định cũng như di động. Về mặt công nghệ, sự khác lạ của NGN là chuyển mạch gói so với chuyển mạch kênh truyền thống trên PSTN.
Nhóm nghiên cứu ITU-T SG13 khái niệm NGN trong Khuyến nghị Y.2001 như sau: “Mạng truyền tải gói cho phép hỗ trợ các dịch vụ liên lạc viễn thông và có khả năng sử dụng nhiều loại hình băng rộng, các công nghệ truyền tải đảm bảo QoS, trên đó các tác dụng liên quan tới dịch vụ độc lập với các công nghệ truyền tải phía dưới. Nó cho phép người dùng truy nhập tự do tới các mạng, các nhà hỗ trợ dịch vụ và/hoặc các dịch vụ theo ý muốn của họ. Nó hỗ trợ tính năng di động (generalized mobility), khả năng hỗ trợ dịch vụ ổn định, mọi lúc mọi nơi”.
2.2. Lộ trình chuẩn hóa NGN
NGN đã và đang là một đề tài nóng trong lĩnh vực viễn thông trên toàn toàn cầu, nhiều diễn đàn, tổ chức và dự án đang hoạt động rất tích cực trong tiến trình chuẩn hóa NGN.
Trên hết phải nhắc tới vai trò chủ đạo của ITU-T trong chuẩn hóa NGN. Khởi đầu bằng hội thảo “Next Generation Netwroks: What, When and How?” tại trụ sở của ITU-T ở Geneva, Thụy Sỹ tháng 6/2003. Sau đó FGNGN (Focus Group on NGN) được thành lập để soạn ra các phác thảo chuẩn trước hết của NGN. Kết quả của nó được tiếp tục bởi ITU-T SG13, nhóm nhiên cứu hàng đầu về NGN, đưa ra các khuyến nghị chính thức của ITU-T về NGN. Sau FGNGN, NGN-GSI (Global Standards Initiative) được thiết lập là nhóm quản lý hệ thống tập trung về NGN, bao gồm các nhóm nghiên cứu SG11 (về các giao thức báo hiệu), SG17 (về an ninh mạng) và SG19 (về các mạng di động) . Kết quả của các nhóm làm việc này tới thời khắc hiện nay là NGN Release 1 gần hoàn chỉnh tập trung vào các dịch vụ trên nền phiên (session-oriented), các Khuyến nghị Y.2xxx, Q.3xxx về lưu lượng và quản lý QoS, chuyển đổi từ PSTN/ISDN, quản lý mạng, an ninh, di động (mobility), báo hiệu… . NGN Release 2 sẽ đi sâu vào các dịch vụ dòng (streaming) như IPTV và mở rộng sang di động.
Gần như song song với ITU-T, Viện Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu (ETSI) mở màn dự án TISPAN (Giao thức và mạng tụ hội viễn thông và Internet cho các mạng tiên tiến) tháng 9/2003 để soạn thảo ra chuẩn châu Âu về NGN và quyết tâm đưa chúng thành các chuẩn quốc tế ITU-T. 3GPP IMS được chọn là nền tảng cơ bản cho NGN. Mục tiêu của TISPAN là: (1) mở rộng IMS cho các người dùng băng rộng, PSTN/ISDN; (2) hỗ trợ đầy đủ các dịch vụ PSTN/ISDN ngày nay cho các người dùng trên mạng thế hệ mới để hỗ trợ các kịch bản chuyển đổi; (3) mở rộng các phạm vi thuộc về quản lý của IMS nhưng 3GPP chưa hỗ trợ như gọi nguy cấp (Emergency calling), nghe trộm đúng luật (Lawful Interception), báo cuộc gọi có mục tiêu xấu (Malicious Call Indication – MCI), CLIP/CLIR… . Các kết quả của TISPAN khá giống của ITU-T, TISPAN NGN Release 1 ban hành vào 2005 là các chuẩn nền tảng để tăng trưởng và xây dựng NGN. Release 2 vẫn trong quá trình hoàn thiện tập trung vào tính năng di động, hỗ trợ nội dung và các dịch vụ mới với mức an ninh và quản lý mạng tăng lên .
Tiếp đó phải kể tới 3GPP, nơi khởi động mẫu hình IMS. IMS là một phần trong công việc chuẩn hóa công nghệ di động 3G trên mạng UMTS. Công việc này sau đó được 3GPP, 3GPP2, TISPAN mở rộng, hỗ trợ các mạng khác như wireless LAN, CDMA2000 và mạng cố định. 3GPP vẫn tiếp tục tập trung vào tăng trưởng phần lõi của IMS. Họ đã phát hành các Release 99 (nền tảng), 4 (giới thiệu MMS và TD-SCDMA), 5 (HSDPA và IMS), 6 (tăng lên HSPA và IMS). Release 7 đang trong thời kì hoàn thiện, mở rộng IMS sang các mạng cố định.
Ngoài ra, còn phải nhắc tới rất nhiều các dự án và diễn đàn nghiên cứu khác cùng đóng góp vào sự tăng trưởng của NGN: Internet Engineering Task Force (IETF), MultiService Forum, các tổ chức liên quan tới Service Delivery Platform (SDP) như OSA/Parlay, JAIN, European Regulators Group…
2.3. Softswitch hay IMS?
Khái niệm của ITU-T chỉ nêu ra khái niệm chung về mạng NGN nhưng ko cụ thể hóa hình thức để xây dựng NGN. Nói tới NGN hiện nay chúng ta thường nhắc tới Softswitch (chuyển mạch mềm) và IMS (IP Multimedia Subsystem). Đó là hai hệ thống được biết tới rộng rãi trong toàn cầu NGN, nhưng cũng nên xem xét rằng một nhà hỗ trợ hay khai thác mạng nào đó có thể có phương thức riêng để triển khai theo mục tiêu, nhu cầu của họ, ko nhất quyết phải là Softswitch hay IMS.
Theo ý tưởng thiết kế lúc đầu, Softswitch đúng tức là software switch, dùng để thay thế cho TDM switch (tổng đài chuyển mạch TDM). Vì mạng điện thoại truyển thống dùng chuyển mạch kênh, Softswitch cần có giao diện với cơ sở hạ tầng đã có, bao gồm đường truyền thông TDM (media path) và báo hiệu SS7. Vì tính phân tán của mạng IP, cộng thêm sự ra đời ngày càng nhiều Softswitch, các tác dụng của nó được tách ra thành các phần riêng: Media Gateway (MGW), Signaling Gateway (SGW) nằm tại biên mạng làm nhiệm vụ chuyển đổi lưu lượng (sang gói IP) và báo hiệu (sang H.248 hay SIP) và phần xử lý cuộc gọi tạm gọi là Call Control. Hình 1 trình diễn các tác dụng chính của Softswitch. Lúc đầu, Softswitch cũng được thiết kế thích hợp với cấu trúc chuyển mạch truyền thống gồm có các tổng đài Class 4 và Class 5. Theo thời kì, cùng với việc chia tách các thành phần như MGW, SGW, Call Control của hệ thống Softswitch, sự tách biệt tác dụng chuyển mạch Class 4/5 trở thành ko cần thiết. Các Softswitch hiện nay đều hỗ trợ đầy đủ các tác dụng chuyển mạch Class 4 và 5.
![]() |
Hình 1. Các thành phần chính của hệ thống Softswitch
Cấu hình IMS lúc đầu được 3GPP xây dựng nhằm hỗ trợ các dịch vụ truyền thông đa phương tiện (IP multimedia) cho người dùng di động. IMS mô tả một cấu trúc lớp với các tác dụng mạng cụ thể tại mỗi lớp, nhưng khái niệm các thành phần hay thiết bị mạng hỗ trợ các tác dụng đó. Các nhà hỗ trợ có thể tùy ý thiết kế và chào sắm các thiết bị nhưng phải tuân theo các giao diện chuẩn để có thể kết nối, hoạt động tương thích với thiết bị IMS của nhà hỗ trợ khác. IMS có các tác dụng chính như: P/S/I-CSCF (Proxy/Serving/Interrogating-Call Session Control Function), HSS (Home Subscriber Server), BGCF (Breakout Gateway Control Function), MGCF (Media Gateway Control Function), MRF (Media Resource Function), AS (Application Server)… (Hình 2). Với các mục tiêu và tầm nhìn rộng nhưng IMS đang hướng tới, có vẻ như IMS là hướng tăng trưởng chủ đạo của mạng thế hệ mới NGN.
![]() |
Hình 2. Cấu trúc tác dụng của IMS
Song song với IMS, các diễn đàn chuẩn hóa cũng đã có tác động lớn tới sự tăng trưởng của Softswitch. Theo xu thế tăng trưởng IMS, tất cả các nhà hỗ trợ Softswitch đều vạch ra lộ trình chuyển đổi hay cải tạo hệ thống sang IMS trong tương lai. Một vài hiện thực nên xem xét tới lúc phân tích quan hệ giữa Softswitch và IMS: (1) IMS chưa phải là một công nghệ chín muồi và khó có thể dự đoán được thành công trong tương lai; (2) hệ thống Softswitch hiện nay đã khá tăng trưởng và ngày càng có nhiều tính năng mới thích hợp với xu thế tăng trưởng mạng và dịch vụ. Ranh giới giữa Softswitch và IMS ngày càng mờ; (3) tùy theo mục tiêu kinh doanh, tình trạng mạng ngày nay, năng lực thị trường, nhu cầu người dùng… các nhà hỗ trợ dịch vụ viễn thông ko nhất quyết cần tới IMS, một giải pháp Softswitch tăng lên có thể là phù thống nhất với nhu cầu của họ; (4) có vẻ như sự tồn tại song song của cả hai công nghệ là phương án ít rủi ro nhất cho các nhà hỗ trợ dịch vụ: Softswitch cho kết nối thoại (hiệu quả và tin tưởng) và IMS dành cho các dịch vụ tăng lên mới.
3. Những thử thách và thời cơ của NGN
Lúc phân tích thẩm định những thử thách và thời cơ nhưng NGN có thể đem lại cho nhà khai thác viễn thông, bài viết này đi sâu vào ba lĩnh vực đáng xem xét nhất: quyết định triển khai NGN, phương thức triển khai và phương án kinh doanh trên NGN.
3.1. NGN: nên hay ko?
Có thể khẳng định cứng cáp rằng NGN mang lại rất nhiều thời cơ cho các nhà khai thác viễn thông. Điều này đã được thảo luận rất nhiều trong các hội thảo chuyên đề hay trong các bài nghiên cứu liên quan , , , , một vài ý chính có thể được tóm tắt như sau:
(1) Kinh doanh thuần túy trên đường truyền thông (“pipe” business) và dịch vụ điện thoại cơ bản ngày càng trở thành thông dụng và có nhiều đối thủ cạnh tranh. Ví dụ trên thị trường viễn thông Việt Nam ngoài VNPT, nay đã có thêm các doanh nghiệp viễn thông như Viettel, FPT, EVN, S-fone, HT và sắp tới là GTel. Các nhà khai thác phải cạnh tranh quyết liệt về giá cả, dẫn tới giảm lợi nhuận đáng kể. Nếu nhà khai thác muốn thành công trong hoàn cảnh mới, họ phải tìm ra cách tăng thêm trị giá vào dịch vụ truyền thông của họ. NGN là nền tảng để hỗ trợ các dịch vụ tăng lên mới, giữ chân người dùng, mở ra những thời cơ thị trường mới, lợi nhuận mới.
(2) Mạng NGN tạo nền tảng cho các nhà khai thác mạng tăng trưởng, hỗ trợ hiệu quả các dịch vụ mới, loại trừ các phương thức xây dựng dịch vụ kém hiệu quả, đơn chiếc, cá thể, và ko sử dụng lại được như hiện nay. NGN giúp giảm thời kì đưa ra thị trường (time-to-market) và chi phí cho vòng đời (life-cycle) của các dịch vụ mới.
(3) Năng lực của các giải pháp NGN (Softswitch hay IMS) đều lớn hơn nhiều so với các tổng đài chuyển mạch Class 4/5 cũ. Hơn nữa, NGN có chi phí khai thác và vận hành thấp hơn. Những tính năng này rất lôi cuốn ko chỉ với các doanh nghiệp mới tham gia thị trường, nhưng còn thu hút sự quan tâm của các nhà khai thác truyền thống lúc xem xét mở rộng hay thay thế mạng lưới ngày nay. Nền tảng IP cho phép hiệu quả hóa quản lý mạng và sử dụng tài nguyên mạng.
(4) Làm giảm nhu cầu vế số lượng cũng như ko gian dùng để lắp đặt các tổng đài, thiết bị mạng. Việc này kéo theo tiết kiệm đáng kể về nhà đặt tổng đài, điểm kết nối và năng lượng tiêu thụ.
Chuyển đổi sang NGN là xu thế thế tất của ngành viễn thông. Tuy nhiên, một số nhà khai thác cũng có thể đưa ra lý do để ko triển khai NGN. Hiện nay tại phần lớn các thị trường, số lượng người dùng điện thoại cố định đã bão hòa và có xu thế giảm dần. Mạng PSTN sẵn có vẫn có năng lực, chất lượng tốt hỗ trợ dịch vụ trong nhiều năm nữa. Vì sao lại đầu tư vào NGN với phần lớn các dịch vụ như cũ, sự tiếp thu của người dùng và thành công của các dịch vụ NGN mới chưa thật sự rõ ràng và cứng cáp? Đây là bài toán của một chiến lược kinh doanh dài hạn. Chiến lược kiểu “phòng thủ” nếu may mắn có thể giúp nhà khai thác giữ được vị thế trên thị trường tới một thời khắc nào đó. Thành công chỉ thật sự tới với sự thông minh trong kinh doanh và sự nắm bắt hợp lý các thời cơ. Với các thời cơ như đã trình diễn ở trên, việc chọn lựa NGN hay ko có nhẽ tương đối dễ trả lời. Cái khó với các nhà khai thác viễn thông là việc tận dụng hợp lý các thời cơ của NGN. Trước tiên là quyết định lúc nào nên mở màn triển khai NGN?
Triển khai NGN yêu cầu đầu tư lúc đầu ko nhỏ. Triển khai NGN quá sớm sẽ làm lãng phí năng lực mạng sẵn có. Bộ máy kinh doanh chưa sẵn sàng gây ra hiệu quả kinh doanh kém. Thị trường chưa chín muồi sẽ ko bị lôi cuốn bởi các dịch vụ NGN mới. NGN là công nghệ vẫn đang tăng trưởng, đầu tư sớm có thể có nhiều rủi ro, các thiết bị cũ sẽ ko tương thích với các chuẩn NGN sau này. Triển khai NGN quá muộn cũng sẽ ko tận dụng được các thời cơ NGN đem lại. Đối thủ cạnh tranh nào triển khai NGN trước sẽ chiếm lĩnh các lợi thế của NGN trên thị trường. Mặt khác, đầu tư tiếp vào mạng cũ là lãng phí lúc chi phí đó có thể dùng để khởi động mạng NGN có năng lực và tính năng vượt trội. Vì vậy, quyết định triển khai NGN đúng mực phải được xem xét cân nhắc kỹ lưỡng theo hoàn cảnh cụ thể của thị trường, của mỗi nhà khai thác.
3.2. Chuyển đổi sang NGN
Nhà khai thác viễn thông sau lúc đã quyết định triển khai NGN sẽ phải đương đầu với một thử thách tiếp theo: chuyển đổi sang NGN. Chuyển đổi mạng truyền thống PSTN – hình thức mạng về cơ bản là ko đổi trong nhiều thập kỷ qua – sang NGN ko thuần tuý chỉ là bài toán kỹ thuật. Chuyển sang NGN là sự thay đổi về hệ thống của toàn doanh nghiệp, cần có một chiến lược chuyển đổi tổng thể rõ ràng. Kế hoạch chuyển đổi sang NGN sẽ liên quan, trực tiếp hoặc gián tiếp, tới nhiều lĩnh vực: chiến lược, kinh doanh và bán hàng, tăng trưởng dịch vụ, các hệ thống IT (bao gồm OSS, BSS, khai thác và quản lý mạng…), hiệu quả hóa mạng, quản lý hỗ trợ thiết bị và các đối tác hỗ trợ thiết bị, nguồn nhân lực… Các vấn đề sau cần phải xem xét tới trong kế hoạch:
Các hạn chế và thử thách của nguồn nhân lực và tài nguyên mạng,Những rủi ro có thể xảy ra trong chuyển đổi liên quan tới hỗ trợ dịch vụ liên tục và đảm bảo các dịch vụ và chuyển đổi người dùng,Nhận định cụ thể về các chi phí chuyển đổi và các khoản tiết kiệm được trong quá trình thay đổi hệ thống,Các nguồn lợi nhuận mới có thể thu được từ việc hỗ trợ các dịch vụ (NGN) mới trên thị trường.
Một kế hoạch chuyển đổi chung cho toàn hệ thống dịch vụ điện thoại POTS và dữ liệu thông thường mất khoảng 3 tới 8 năm, theo như kinh nghiệm của nhiều nhà khai thác trên toàn cầu. Tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, nhà khai thác có thể chọn tuyến đường chuyển đổi nhanh hay chậm trong vòng thời kì trên. Chuyển đổi chậm, kéo dài có vẻ như là ít chi phí và ít rủi ro nhất, đảm bảo sự chuyển đổi trơn tuột của các dịch vụ và người dùng. Số lượng đường thuê bao phải chuyển đổi hàng ngày có thể được nhân lực sẵn có thực hiện. Thử thách có thể xảy tới lúc chuyển đổi chậm là trong vòng thời kì đó các nhà khai thác khác trên cùng thị trường có thể đã hoàn thành NGN trước, hỗ trợ trước các dịch vụ cạnh tranh hoặc mới với giá rẻ hơn. Do đó suốt quá trình chuyển đổi nhà khai thác phải liên tục nghiên cứu xem xét động thái của thị trường để có phản ứng, điều tiết thích hợp. Trái lại chuyển đổi rất nhanh mang lại nhiều thuận tiện cho kinh doanh nhưng sẽ yêu cầu chi phí lớn cũng như ẩn chứa nhiều rủi ro. Số lượng đường thuê bao phải chuyển đổi hàng ngày có thể rất lớn, vượt quá khả năng của nhân lực ngày nay. Tuy nhiên đầu tư nhanh cũng khiến chi phí chuyển đổi cao. Thời kì ngắn hạn chế các thử nghiệm, nghiên cứu nhu cầu thị trường, vì vậy làm tăng rủi ro trong vận hành và khai thác mạng.
Một vấn đề quan trọng khác của chuyển đổi là việc sử dụng (lại) một cách hiệu quả nhất hệ thống, cơ sở hạ tầng ngày nay. Nhà khai thác truyền thống thường khai thác các mạng hạ tầng sau: mạng TDM (nội hạt, liên tỉnh, kết nối quốc tế), mạng dữ liệu/Internet, mạng pre-NGN (VoIP, SIP). Các hệ thống này có thể sử dụng tiếp/lại vào các mục tiêu hỗ trợ người dùng truyền thống cho tới lúc họ chuyển sang NGN, làm (một phần) mạng lõi cho mạng NGN mới, hay upgrade/chuyển đổi thành một phần của NGN mới. Có thể thấy trước rằng mạng cũ sẽ hoạt động song song với mạng mới trong suốt quá trình chuyển đổi và có thể thêm vài năm tiếp theo nữa. Thời khắc cần xong xuôi hoạt động của mạng cũ là lúc chi phí vận hành nó đã lớn hơn nhiều so với lợi ích nhưng nó mang lại.
Tuy ko trực tiếp là mục tiêu của chuyển đổi nhưng mở rộng băng thông truy nhập của các thuê bao là việc nhất quyết phải thực hiện trong thời kỳ chuyển đổi để người dùng thực sự trải nghiệm được các dịch vụ mới và các tiện ích sẽ được mời chào trong môi trường NGN. Nghiên cứu triển khai các công nghệ truy nhập vận tốc cao như ADSL2+ hay truy nhập quang FTTx, PON, GPON… cần được xem xét tăng trưởng.
3.3. Kinh doanh và khai thác NGN
Có rất nhiều vấn đề về mẫu hình kinh doanh và khai thác NGN, tuy nhiên phần này tập trung vào một số điểm đáng chú nhất liên quan tới thời cơ và thử thách lúc khai thác NGN; những thử thách và thời cơ lúc NGN đã được lựa chọn và khai thác thương nghiệp. Các điểm liên quan tới định vị chiến lược, marketing dịch vụ, và những thay đổi về tổ chức, nhưng trước mắt là lúc tụ hội di động cố định sẽ được trình diễn tuần tự.
Xem thêm: Heo Quay Cúng Bà Chúa Xứ Châu Đốc, Heo Quay Cúng Bà
3.3.1. Định vị chiến lược của nhà khai thác dịch vụ
Ngay trong khái niệm về NGN của ITU thì dịch vụ viễn thông cũng chỉ là một loại dịch vụ hỗ trợ trên NGN. Các nhà khai thác viễn thông – bất kể là truyền thống (incumbent) hay mới tạo nên (alternative) – đều có dịp mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực khác như hỗ trợ nội dung thông tin, các ứng dụng trực tuyến hay truyền thông… Ngay trong thời kỳ tiền NGN, nhiều nhà khai thác viễn thông đã tự định vị mình thành nhà hỗ trợ thông tin (China Mobile), nhà xử lý trả tiền (Smart Phillipines), nhà hỗ trợ hạ tầng cho phong cách sống (NTT DoCoMo). Hoặc như với SingTel, doanh nghiệp ko còn nhấn mạnh về một toàn cầu ko khoảng cách (no distance), nhưng muốn biến toàn cầu thành một sân chơi (playground) cho người dùng trẻ. Nhà khai thác có thể lựa chọn, tuy nhiên định vị chiến lược luôn là bước đi quan trọng nhất quyết định sự thành công, và cả thất bại.
Xét ở phạm vi hẹp hơn và truyền thống hơn, NGN đặt ra thời cơ và thử thách cho nhà khai thác viễn thông thay đổi vị trí chiến lược của mình trong chuỗi trị giá của các dịch vụ viễn thông, liên lạc.
Với khả năng xử lý rất mạnh, dung lượng ko hạn chế, và tính mở của NGN như mong muốn của ITU có thể làm cho NGN mở ra thời cơ tương đối đồng đẳng giữa những thành viên tham gia thị trường: nhà khai thác mạng, nhà hỗ trợ dịch vụ, nhà bán lại dịch vụ, nhà hỗ trợ nội dung thông tin và cả người sử dụng cuối cùng. Trong môi trường NGN, người sử dụng cuối cùng – vốn thụ động trong các mẫu hình kinh doanh viễn thông trước đây – có thể tự thiết kế cho mình các dịch vụ với tính năng và yêu cầu rất riêng về chất lượng. NGN còn đưa nhà khai thác viễn thông gần hơn với người dùng doanh nghiệp (DN), biến những yêu cầu phức tạp và yêu cầu rất cao thành những giải pháp sẵn có và mềm mỏng. Một vấn đề quan trọng khác tính mềm mỏng và khả năng phân tán kiểm soát của NGN có thể làm cho nhiều người trên thị trường trở thành nhà bán lại dịch vụ; các nhà bán lại dịch vụ này chính là người dùng mua sỉ của nhà khai thác.
Vậy nhà khai thác sẽ phân định ranh giới với “người dùng” ở điểm nào, sẽ dành cho họ mức độ linh hoạt ra sao để vừa thỏa mãn được người dùng nhưng vẫn giữ được quyền kiểm soát và mức lợi nhuận đủ lôi cuốn? Tại Việt Nam trong khi các đối thủ cạnh tranh tiềm năng tới từ bên ngoài ngành viễn thông chưa đủ mạnh, thì lợi thế nghiêng nhiều hơn về các nhà khai thác viễn thông.
3.3.2. Marketing dịch vụ
Một số khía cạnh marketing dịch vụ NGN sẽ được phân tích như sau:
Về tăng trưởng dịch vụ: Từ cách đặt vấn đề, NGN sẽ có khả năng rất lớn để hỗ trợ các dịch vụ thông minh. Tuy nhiên, toàn cầu mới chỉ đưa ra dự đoán về xu thế tăng trưởng dịch vụ và những yêu cầu cần có của chúng; và hiện chưa biết dịch vụ nào sẽ đắt khách, sẽ là động lực cho sự tăng trưởng của NGN. Trong trường hợp này, người tăng trưởng dịch vụ đứng trước mặt trái của quyền được lựa chọn, đó là: ko biết chọn gì. Tuy nhiên, việc bứt phá khỏi khuôn mẫu dịch vụ cũ, tư duy hướng người dùng và dám thử nghiệm sẽ là những điều cần thiết để tận dụng thời cơ tăng trưởng dịch vụ từ NGN. Một điều cứng cáp và dễ trông thấy đó là việc gộp các dịch vụ lại thành những gói dịch vụ tụ hội, giữa cố định – di động – nội dung – dữ liệu, sẽ là một thời cơ để bán kèm dịch vụ và tạo rào cản thay đổi nhà hỗ trợ.
Về định giá: NGN có lợi thế là khả năng tính cước mạnh và mềm mỏng. Tuy nhiên, do mẫu hình kinh doanh trên NGN vẫn dựa trên hiệu ứng mạng (network effect) – “càng đông càng vui” – nên trước tiên là phải định giá nhằm mở rộng thị trường, nhanh chóng đạt quy mô đủ lớn. Hiệu ứng mạng sẽ biến kẻ vững mạnh thành vững mạnh hơn và kẻ yếu thành yếu hơn; điều này đồng thời tạo ra cả thử thách và thời cơ cho nhà hỗ trợ dịch vụ NGN. Điều dễ nhận thấy là giá cước sẽ phải tính theo gói vì NGN là mạng đa truy nhập và đa dịch vụ; tương tự cũng thích hợp với xu thế tụ hội.
Về bán hàng và phân phối: NGN sẽ thử thách nhà hỗ trợ với khái niệm người dùng và kênh phân phối. Người dùng ko chỉ phân biệt giữa tư nhân và DN; và kênh phân phối sẽ có nhiều chuyển đổi, chủ yếu là ngắn lại. Một nhân vật người dùng “máu chiến” nhất đó là các DN viễn thông hoặc các nhà bán lại dịch vụ. Nhân vật người dùng này có doanh số sắm lớn, nhưng lại luôn tìm cách mở rộng vai trò trong chuỗi trị giá, và thực tiễn là muốn lấn lướt nhà khai thác. Kênh bán hàng cho nhân vật này cũng hết sức chuyên biệt. Tuy vậy, ngay trong mẫu hình kinh doanh cũ, tới 80% lợi nhuận của các người dùng này lại chảy về nhà khai thác mạng. Do đó, việc cạnh tranh và hợp tác cũng như tăng trưởng quan hệ hai chiều là rất cần thiết. Nhân vật người dùng đáng nói tiếp theo đó là các đối tác cùng kinh doanh; đó là các nhà hỗ trợ nội dung thông tin, hỗ trợ các dịch vụ liên kết trong gói dịch vụ tụ hội… Nhân vật này về cơ bản đem lại thời cơ cùng thắng (win-win) và sẽ được tận dụng bằng các hoạt động cùng tiếp thị (co-marketing).
Về chăm sóc người dùng (CSKH): Một trong những đặc điểm của NGN đó là: công nghệ ngày càng tụ hội, nhưng người dùng ngày càng phân ly/tán. Khả năng truy nhập ko hạn chế và cá thể hóa mềm mỏng chính là lý do của hiện tượng này. Ngoài ra, công nghệ và đặc tính dịch vụ đã trở thành tinh xảo và khó sử dụng hơn. Do đó việc thông tin, CSKH là một thử thách lớn. Quá trình CSKH yêu cầu nhiều thông tin, và thông tin cá thể hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, NGN lại có khả năng tích lũy rất nhiều thông tin từ người dùng, đặc thù là mô thức sử dụng. Do đó, nguồn thông tin từ CSKH là rất có trị giá. Bản thân việc quản lý và khai thác thông tin người dùng trên NGN cũng là một dạng kinh doanh đầy tiềm năng. Như đã nói trên đây, hiện cả toàn cầu vẫn đang đi tìm các dịch vụ ăn khách, tìm kiếm mẫu hình kinh doanh thích hợp, và nói một cách khác, các nhà khai thác đang “thử nghiệm trên người dùng”; do đó quá trình chăm sóc, quan sát người dùng đem lại nhiều lợi ích cho kinh doanh trên NGN.
2.3.3. Thay đổi về tổ chức
Chuyển đổi sang NGN sẽ kéo theo những thay đổi thâm thúy về mẫu hình tổ chức sản xuất kinh doanh của nhà khai thác viễn thông.
Trước nhất có thể nhận thấy là số người cần thiết để vận hành mạng NGN sẽ giảm mạnh. Nhiều nhà tư vấn cho rằng họ có thể giảm tới 60% chi phí nhân lực vận hành mạng lúc chuyển sang NGN. Tuy nhiên, việc làm và nhân sự luôn là một vấn đề nan giải cho mọi cuộc cải cách nhưng NGN ko phải là ngoại lệ; và điều này vừa là thời cơ, vừa là thử thách với nhà khai thác.
Khả năng mở rộng, lấn sân sang các lĩnh vực kinh doanh mới sẽ kéo theo việc tạo nên những người lao động mới, với chuyên ngành mới. Ngoài ra, lúc chuỗi trị giá dịch vụ viễn thông trên NGN thay đổi, thứ tự hỗ trợ dịch vụ, mẫu hình tổ chức cũng phải thay đổi theo. Việc tạo nên những nhân vật người dùng mới, có mức độ tác động lớn tới lợi nhuận như người dùng là các nhà khai thác khác, là nhà bán lại dịch vụ…sẽ xúc tiến tạo nên các bộ phận bán sỉ, các viên chức quản lý người dùng lớn chuyên quản (acc manager).
Sự tụ hội về công nghệ, dịch vụ cũng xúc tiến quá trình tụ hội về mẫu hình khai thác và bán hàng. Xu thế “riêng và rõ” các dịch vụ như trước đây ko còn thích hợp. Quá trình tụ hội ko nhất quyết phải mở màn bằng tụ hội công nghệ, nhưng, thỉnh thoảng chỉ đơn giản là sự tụ hội về hành động, về khai thác hoặc mục tiêu kinh doanh.
Xu thế “tụ hội” cố định – di động ở thị trường viễn thông vào loại lớn nhất toàn cầu là Trung Quốc là một ví dụ. Những vụ “tụ hội” thuần túy về kinh doanh đang diễn ra mạnh mẽ với quy mô lớn: China Mobile với China Tietong, China Unicom (GSM) với China Netcom và China Telecom với China Unicom (CDMA). Tương tự tương tự, ở Việt Nam, Nga, Pháp, Hàn Quốc… đều có việc tái cấu trúc các nhà khai thác viễn thông. Quá trình “tụ hội” thông qua sáp nhập, sắm lại như trên có tác động lớn về tổ chức, con người và hệ thống kinh doanh khai thác. Với quá trình “tụ hội thực sự” trên NGN thì thì việc tổ chức kinh doanh của nhà khai thác sẽ hoàn toàn khác
Tất cả những sự thay đổi này đều nhằm mục tiêu tận dụng thời cơ; tuy nhiên thử thách luôn nằm ở phương pháp và hiệu quả thực hiện.
4. Kết luận
Bất kỳ sự thay đổi nào cũng ẩn chứa thời cơ và thử thách. Chuyển đổi sang mạng NGN trên nền IP thậm chí còn nhiều thử thách hơn vì đây là sự thay đổi toàn diện về hệ thống của mạng PSTN được tăng trưởng và khai thác suốt trong nhiều thập kỷ qua. Từ góc nhìn khác, mạng NGN mới sở hữu những tính năng vượt trội thích hợp với xu thế tăng trưởng của ngành công nghiệp thông tin và truyền thông, là nền tảng vững chắc cho cạnh tranh và kinh doanh thông minh trong toàn cầu thương nghiệp tự do và toàn cầu hóa hiện nay và tương lai. Nhà khai thác viễn thông đứng trước quyết định chuyển đổi thiết yếu cái nhìn toàn diện và sâu rộng về các thời cơ cũng như thử thách của việc triển khai NGN. Mục tiêu của bài viết này là chỉ ra và phân tích một số thử thách và thời cơ, với mong muốn hỗ trợ thêm thông tin, hỗ trợ nhà khai thác viễn thông ra quyết định lúc triển khai NGN.
Tài liệu tham khảo
. T. Cohen, Next Generation Networks (NGN) Regulation Overview, Global Symposium for Regulators, Dubai, UAE, 5-7 February, 2007.
. K. Knightson, N. Morita, T. Towle, NGN Architecture: Generic Principles, Functional Architecture, and Implementation, IEEE Communications Magazine, October 2005.
. C. Lee, D. Knight, Realization of the Next-Generation Network, IEEE Communications Magazine, October 2005.
. T-Systems, Next Generation Network: Motivation and Challenges for Incumbents, White Paper.
. I. Jenkins, NGN Control Plane Overload and its Management, MSF-TR-ARCH-007-FINAL, MultiService Forum, February 2006.
. P. Dailey, The Softswitch – Driving a New Vision of Communication as the Central Element in the Next-Generation Network, Frost & Sullivant.
. IMS & the Future of Softswitches in Next-Gen Network, Heavy Reading, Vol. 4, No. 19, December 2006.
. S. Marcus, Interconnection in an NGN Environment, ITU Background Paper, NGN/02, 23 March 2006.
. ITU-T Recommendations Y.2001, General Overview of NGN, December 2004.
N. Morita, H. Imanaka, O. Kamatani, T. Oba, K. Tanida, Overview and Status of NGN Standardization Activities at ITU-T, NTT Technical Review.
Xem thêm: Bánh Sinh Nhật Siêu Nhân Đẹp, Bánh Sinh Nhật Vẽ Hình Siêu Nhân
. International Telecommunication Union, http://www.itu.org
. TISPAN, http://www.tispan.org
. I. Gronbaek, NGN, IMS and Service Control – Collected Information, Telenor R&I Research Note, R&I N 31/2006.
Bạn thấy bài viết Công Nghệ Mạng Ngn Là Gì ? Định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích Giải Pháp Mạng Ngn Của Cdit có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Công Nghệ Mạng Ngn Là Gì ? Định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích Giải Pháp Mạng Ngn Của Cdit bên dưới để yt2byt.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Cao đẳng Kỹ thuật Y tế II
Phân mục: Hỏi đáp
Nguồn: yt2byt.edu.vn