Top 8 bài văn hay: Phân tích bài Chữ người tử tù lớp 11 chọn lọc
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù tuyển chọn, hay nhất sẽ giúp các em học trò đưa ra các lập luận, phép tắc xác thực và ý nghĩa nhất để hoàn thành xuất sắc bài viết của mình.
Bài văn mẫu số 1: Phân tích Chữ người tử tù
Tình huống truyện được tái dựng trong tác phẩm và tác dụng của nó đối với việc bộc lộ tính cách nhân vật và kịch tính của truyện
Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo cho câu chuyện thêm rực rỡ. Tình huống truyện biểu thị mối quan hệ giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh sống, qua đó bộc lộ tâm trạng tính cách suy nghĩ… của nhân vật.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống truyện lạ mắt, rực rỡ, giàu kịch tính cho hai tuyến nhân vật trong tác phẩm của mình. Hai nhân vật đó là Huấn Cao — người tử tù phạm tội đại nghịch đang bị giam chờ ngày hành quyết, người tài hoa nổi tiếng viết chữ đẹp… và nhân vật viên quản ngục – người quản lí tù nhân, đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời nhưng lại rất yêu cái đẹp, hâm mộ người tài và có tấm lòng lương thiện. Trên phương diện xã hội, họ hoàn toàn đôi lập nhau: nhưng họ lại có cùng điểm chung là say mê cái đẹp tao nhã và đều có tâm hồn thanh khiết, lương thiện, biết đãi ngộ thiên tài. Tương tự, trên phương diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của nhau.
Hoàn cảnh gặp mặt của họ thật oái oăm: đó là nơi tù ngục tối tăm, nhơ bẩn, nơi người này quản lí người kia. Tình huống này dẫn tới xung dột trong nội tâm của viên quản ngục: làm thế nào để vừa làm tròn phận sự của một người canh tù lại vừa giữ trọn tấm lòng đốỉ với một người tài hoa nhưng mà mình từng quý trọng và ước ao họp mặt. Từ đây phát sinh nhiều kịch tính: người tử tù thành người nhưng mà viên quản ngục nhờ vả muốn xin chữ; đồng thời lại là người mở đường hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính tình huống lạ mắt này đã giúp làm nổi trội trọn vẹn, tự nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao và làm sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản ngục.
Những vẻ đẹp lạ mắt của nhân vật Huấn Cao
Huấn Cao là một người tài hoa khác thường. Ông có tài viết chữ rất đẹp, “chữ đẹp và vuông lắm”, khiến nhiều người ước mơ có được chữ viết của ông treo trong nhà của mình, trong đó có viên quản ngục.
Huấn Cao là một con người hiên ngang, khí phách, là một người hùng đầu dội trời chân đạp đất. Một tử tù đợi ngày ra pháp trường vẫn giữ trạng thái ung dung, tự tại và ko hề nao núng. Tới cảnh chết chém ông còn chẳng sợ. Sự ngang tàng của ông còn được trình bày qua thái độ ko quỵ lụy trước cường quyền và hơn nữa lại còn miệt thị viên quản ngục.
Ông còn là một người có thiên lương trong sáng và cao đẹp. Ông ko phải là một con người sắt đá, ông cũng biết quý trọng người ngay, người tri kỉ. Lúc hiểu được tấm chân tình và thái độ từ chỗ khinh miệt, khinh thường, dè chừng sang thái độ tôn trọng. Đó là thái độ tôn trọng đối với con người có tư cách sống tốt dẹp: trong người tài, yêu cái thú vui tao nhã, thanh khiết. Ông sẵn sàng cho chữ – cái chữ nhưng mà ko cường quyền và bạc tiền nào có thể sắm được – cái chữ nhưng mà cả cuộc đời ông chỉ mới viết cho ba người bạn thân. Tuy nhiên, cái đáng quý nhất và là cái trình bày thiêng lương cao đẹp của ông chính là những lời khuyên chân tình, cuối cùng đối với viên quản ngục trước lúc vào kinh thành thụ án. “Ở đây lộn lạo. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn đi… ở đây thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Cho chữ để cứu người là cái tâm cao đẹp của Huấn Cao. Cái tâm ko chỉ là lòng nhân ái nhưng mà nó còn có sức mạnh cảm hóa lòng người. Ông đã khiến viên quản ngục cảm phục “Chắp tay vái người tù một vái… nói một câu nhưng mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ mồm làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tính cách và tâm hồn của nhân vật viên quản ngục
Nhân vật viên quản ngục xuất hiện trong tác phẩm làm nổi trội chủ đề của tác phẩm. Đây là một con người ko thông minh được cái đẹp nhưng lại biết trân trọng yêu quý cải đẹp.
Là một ngục quan chịu trách nhiệm canh phòng tù nhân, giúp ích cho bộ máy thống trị đương thời nhưng viên quản ngục ko phải là kẻ ko có thiên lương, gian ác, xảo trá nhưng mà trái lại ông vẫn giữ được tư cách sống cao quý trong cảnh tù ngục tối tăm, nhiều cám dỗ.
Viên quản ngục biết trân trọng trị giá con người, biết quý trọng thiên tài. Điều này trình bày rõ qua những cụ thể về những hành động biệt đãi đối với Huấn Cao và những người bạn tù của Huấn Cao.
Ông là một người có thị hiếu tao nhã, cóo quý: đó là thú chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Cái sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm tới bản thân, làm xáo trộn trật tự trong tù, biến một tội phạm có án tử tạo nên một thần tượng để mình tôn thờ.
Diễn hiến nội tâm, hành động và cách xử sự của viên quản ngục chứng tỏ dù sống ở nơi tăm tôi nhưng ông vẫn giữ được tư cách cao đẹp – một tấm lòng trong người đời, xứng đáng trở thành bạn tri kỉ của Huấn Cao. Tư cách và tâm hồn của viên quản ngục theo như nhận xét của Huấn Cao là “một âm thanh trong trẻo xen giữa bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Cảnh cho chữ trong nhà lao
Cảnh cho chữ trong nhà lao vào đêm khuya u tối là một trong những thông minh tuyệt vời của tác giả nhằm làm bộc lộ vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao. Đây là một cảnh tượng trước đây chưa từng có. Một cảnh tượng nhưng mà quang cảnh và nội dung của nó hoàn toàn trái ngược nhau: cảnh cho chữ vốn thanh tao, tươi sáng, xinh tươi lại diễn ra trong chốn tù ngục dơ bẩn tối tăm, ẩm thấp. Nhưng chính trong cảnh tượng như thế, cái đẹp, cái thiện lại càng chứng minh tĩnh trị giá của nó.
Người nghệ sĩ vượt qua những gông xiềng, đớn đau để hiện mình tươi sáng hơn, uy nghi, lồng lộng hơn để viết lên những nét chữ xinh đẹp, những tâm huyết của cả đời mình: trong lúc đó, người vốn đại diện cho uy quyền lại trở thành khúm núm, run run đón nhận từng nét chữ quý giá nhưng mà cả đời tâm huyêt.
Trật tự kỉ cương của nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược: tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, cái lương thiện, thanh cao còn ngục quan vốn đại diện cho công lí lại trở thành nhỏ nhỏ, hèn mọn.
Giữa chốn ngục tù tàn bạo, ko phải quân thống trị làm chủ nhưng mà là người tù làm chủ, cái thiện vẫn hiện lên mạnh mẽ thắng lợi được cái ác. Đó là sự thắng lợi của ánh sáng đối với bóng tối; là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và tư cách cao cả của con người.
Dàn ý phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
1, Mở bài
– Giới thiệu nói chung về tác giả Nguyễn Tuân và những nét rực rỡ trong sự nghiệp sáng tác của ông.
– Giới thiệu nói chung về truyện ngắn “Chữ người tử tù” (xuất xứ, nói chung trị giá nội dung, trị giá nghệ thuật,…)
2, Thân bài
a) Tình huống truyện
– Cuộc gặp mặt đầy oái oăm giữa Huấn Cao và viên quản ngục nơi chốn ngục tù trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao
– Ý nghĩa:
+ Tăng kịch tính và sức quyến rũ cho tác phẩm
+ Giúp nhân vật bộc lộ tính cách
+ Góp phần trình bày ý kiến của Nguyễn Tuân về cái đẹp.
b) Nhân vật Huấn Cao
– Là người có tài viết chữ đẹp, nổi tiếng khắp nơi:
+ Lời khen của viên quản ngục và thầy thư lại
+ Viên quản ngục luôn khát khao, ước ao có chữ ông Huấn để treo trong nhà
– Là người có khí phách hơn người, quật cường và hiên ngang
+ kẻ “chọc trời khuấy nước”, là người dám cầm đầu cả một cuộc đại phản chống lại triều đình để ko đi lại lề lỗi cũ
+ Người làm cho bọn lính mới nghe tên cũng phải dè chừng, lo lắng
+ Thái độ “dỗ gông’ đầy khả năng
– Người có thiên lương trong sáng:
+ Ko vì vàng bạc, quyền lực nhưng mà ép mình cho chữ
+ Cho chữ viên quản ngục vì cảm tấm lòng của viên quản ngục.
c) Nhân vật viên quản ngục
– Người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”
+ Chưa từng gặp Huấn Cao nhưng lại rất kính trọng ông
+ Cách đối xử, thái độ của viên quản ngục lúc Huấn Cao ở tù
d) Cảnh cho chữ
– Diễn ra nơi chốn ngục tù ẩm ướt trong một đêm tối u tịch
– Hình tượng diễn ra: “ba con người chụm nhau dưới ánh sáng của bó đuốc đang dậm tô những nét chữ”
– Là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có
– Ý nghĩa:
+ Góp phần trình bày tính cách, vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật
+ Góp phần trình bày quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp.
3, Kết bài
– Nói chung trị giá nội dung, trị giá nghệ thuật của thiên truyện “Chữ người tử tù” và tài năng của Nguyễn Tuân được trình bày qua tác phẩm.
– Nêu những cảm tưởng của bạn về tác phẩm này.
Bài văn mẫu số 2: Phân tích Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân được đánh gia là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mệnh ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mệnh. Trong đó ta ko thể ko nhắc tới Chữ người tử tù với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm lúc xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ ý thức của tác giả, cũng như trị giá nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài thông minh ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại trừ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những tranh chấp gợi ra tình huống truyện oái oăm, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi trội chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.
Tác phẩm có tình huống gặp mặt hết sức lạ mắt, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng ko gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho quy tắc, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở phương diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn : Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người thông minh ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người thông minh ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó mật thiết chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy lạ mắt, đã giúp câu chuyện tăng trưởng logic, hợp pháp đẩy lên tới cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi trội chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự thắng lợi của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi trội trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người nhưng mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của người nào khiến người nào người nào cũng biết tới. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất kỳ người nào, được treo chữ của ông trong nhà là thú vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao ko chỉ ngừng lại ở mức độ tầm thường nhưng mà đã đạt tới độ phi thường, siêu phàm.
Ko chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được trị giá của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà nhưng mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ đó để trao cho những tấm lòng trong người đời. Trong đời ông, ông ko vì uy quyền nhưng mà trao chữ cho người nào bao giờ: “Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế nhưng mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc trưng, tấm lòng thiên lương đó còn trình bày trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng ko đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Lúc bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời dọa nạt của tên lính dẫn giải tù, Huấn Cao ko hề để tâm, khinh thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Lúc viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han quan tâm, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc tới điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời khắc nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao tĩnh tâm, mỉm cười.
Và đẹp dẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được họi tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tỉnh” nói lên hoài bão, vẫy vùng của một con người có khí phách. Ông ko để tâm tới mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ta tấm lòng của quản ngục, trong những khoảnh khắc cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong người đời.
Viên quản ngục là người có số phận thảm kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người thẳng thắn, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Tư cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, thảm kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khát khao có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu ko xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” ko phỉa người nào cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động thất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được trình bày rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba tư cách cao đẹp chum lại lại chứng kiến những nét chữ dần dần xuất hiện…, viên quản ngục khúm núm cất từng đồng tiền kẽm ghi lại ô chữ, với thái độ sung kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã thông minh tình huống truyện vô cùng lạ mắt. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật rực rỡ, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công lúc Nguyễn Tuân đã gợi lên ko khí thượng cổ nay chỉ còn vang bóng. Nhịp độ câu văn chậm, thư thả, góp phần phục chế lại ko khí thượng cổ của tác phẩm. Văn pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã trình bày niềm tin vào sự thắng lợi thế tất của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng trình bày tấm lòng chân trọng những trị giá văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sặc, tiếng nói tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Bài văn mẫu số 3: Phân tích Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là một con người rất mực tài hoa, là bậc thầy về truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai thời đoạn trước và sau cách mệnh tháng Tám. Ở thời đoạn trước ông được coi là nhà văn “duy mĩ” say mê cái đẹp và coi cái đẹp là đỉnh cao của tư cách con người. “Vang bóng một thời” là tập truyện tiêu biểu cho sáng tác thời kì này của Nguyễn Tuân, ko tin tưởng ở hiện nay và tương lai ông đi tìm vẻ đẹp quá khứ của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục, thú vui tao nhã lành mạnh trong đó có thú chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Hai con người có tư cách cao đẹp, thiên lương trong sáng và cảnh cho chữ lạ lùng được hiện lên trong tác phẩm làm nổi trội cho tài năng văn học và tư tưởng của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao trong câu chuyện là một người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình nhưng mà bị lãnh án xử tử. Trước lúc xử án ông được đưa tới một trại giam có viên quản ngục và thầy thư lại yêu quý nét chữ, trân trọng người tài Huấn Cao nên đã biệt đãi tù nhân, mong muốn ông Huấn cho chữ. Hiểu được tấm lòng đó người tử tù có thiên lương trong sáng đã cho chữ trong hoàn cảnh oái oăm trước giờ chưa từng có. Tình huống truyện là cuộc gặp mặt giữa hai con người khác lạ một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhưng lại đối đầu với triều đình, một bên là viên quan coi ngục đại diện cho người giữ giàng trật tự xã hội phong kiến đương thời nhưng lại khát khao ánh sáng chữ nghĩa. Hai con người đối lập trên phương diện xã hội nhưng lại là tri kỉ, tri kỉ với nhau trên phương diện nghệ thuật. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân đặt vào trong tình huống đối nghịch tạo ra kịch tính cho câu chuyện và cảnh cho chữ là nút thắt được tháo gỡ.
Huấn Cao là một con người tài hoa uyên bác, khí phách hiên ngang, người hùng quật cường và có một thiên lương trong sáng được hiện lên trong tác phẩm. Trước tiên là gián tiếp ở phần đầu qua cuộc hội thoại của viên quản ngục với thầy thư lại. Tài năng viết chữ đẹp của ông được người ở vùng tỉnh Sơn ca tụng làm cho viên quan coi ngục đau đáu một lòng với sở nguyện xin được chữ ông Huấn về treo ở nhà riêng của mình bởi “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân đã mô tả sở nguyện của viên quan coi ngục để làm nổi trội lên chất tài hoa nghệ sĩ nhưng mà bao nhiêu người trong người đời hằng khát khao có được. Ko chỉ vậy người tử tù rất người hùng là tên cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình vì bất mãn với chính sách thống trị triều chính, là kẻ ko sợ lời dọa nạt của bọn lính dẫn giải nhưng mà tự do, hiêng ngang dỗ gông để trận mưa rệp rơi xuống đất, thản nhiên nhận rượu thịt ung dung làm một người tù tự do trong nhà lao. Có mấy người nào trước lúc chết nhưng mà vẫn giữ được khả năng và phong thái tương tự? Ông làm ra vẻ khinh bạc viên quan coi ngục với câu nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì ư? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quan coi ngục đánh mắng người tù chứ hiếm lúc thấy điều trái lại. Con người đó hiện lên qua suy nghĩ của quan lại coi ông là một tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ chọc trời khuấy nước lúc thu được án chém vẫn tĩnh tâm, tự tin đón nhận cái chết. Huấn Cao ko bao giờ khuất phục trước uy quyền, cường quyền và bạo lực. Ông là một nhân vật hiếm có xưa nay bởi sự hòa quện của chất nghệ sĩ với chất người hùng tạo nên nét riêng lẻ, lạ mắt khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời”. Con người đó còn có một thiên lương trong sáng ko phải người nào trên đời ông cũng cho chữ, cuộc đời ông Huấn chỉ mới cho ba lần là ba người bạn tri kỉ. Nhưng lúc hiểu được tấm lòng của quan coi ngục ông mỉm cười nhắc thầy thư lại sẵn sàng chu đáo để ông có dịp được đáp lại sự chân tình đó. Giọng Huấn Cao đã trở thành từ tốn, hòa dịu hơn rất nhiều: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ”. Cho chữ chứ ko phải là viết chữ, nghe như là lời của bề trên ban xuống cho người dưới. Ông khẳng định “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế nhưng mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Huấn Cao ko màng vinh hoa phú quý cũng ko sợ cường quyền nhưng mà ép mình làm điều ko thích. Dù ở trong chốn ngục tù bị giam cầm về thể xác nhưng tâm hồn ông ko bao giờ bị giam giữ, ông vẫn luôn tự do về tư cách.
Ông Huấn quyết định cho chữ trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có” theo như Nguyễn Tuân nhận xét. Cảnh cho chữ thật xác đáng là một nghệ thuật rực rỡ được nhà văn mô tả thật đáng khâm phục tài năng. Thời kì là đêm cuối của một người tù trước lúc ra pháp trường. Quang cảnh cho chữ vừa lạ vừa đẹp vừa như một ảo giác. Lạ vì xưa nay người ta cho chữ trong căn phòng sạch sẽ, lung linh ánh nến ánh đèn, có mùi thơm của hương trầm nhưng ở đây tại nhà lao chẳng có gì ngoài “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất lộn xộn phân chuột, phân gián” chỉ có ánh đuốc tẩm dầu sáng đỏ rực, khói tỏa như đám cháy nhà. Phòng giam ba người nhưng chỉ một người hoạt động. Thầy thư lại run run bưng chậu mực. Viên quản ngục hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa”, từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra, “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm ghi lại ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Ta thấy tư thế đối nghịch nhau giữa một người tù bị giam cầm và hai người tự do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao thì ung dung, tự tại và đối lập với tư thế đó là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run run” của thầy thư lại. Cái “khúm núm” của quan coi ngục ko phải là cái cúi đầu hèn kém nhưng mà trái lại rất đáng trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó là một điều nên làm ở trong đời. Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại ko có uy, người tử tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại tư cách, thiên lương lúc được ông Huấn cho lời khuyên nên thay chốn ở đi, “Thầy quản nên tìm về nhà quê nhưng mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ.Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” đó là lời khuyên chân tình để giữ được tư cách cao đẹp. Trước tấm lòng chân tình đó viên quản ngục lùi ra nhưng mà nói gần như muốn khóc và cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cả ba con người cùng đồng điệu, cùng chung một tấm lòng yêu tha thiết cái đẹp, cái đẹp chữ viết đi liền với cái đẹp tâm hồn và tư cách thiên lương trong sáng.
Tương tự qua tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã cho ta thấy ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Trước tiên đó là thái độ hủy diệt. Điều đó được biểu thị qua mấy tên lính nhưng mà nhà văn mô tả sơ lược ở đoạn đầu với thái độ hống hách, vô lễ với Huấn cao và bạn tù của ông. Chúng là hạng thiên lôi tàn bạo chỉ đâu đánh đó, ở trong chốn ngục tù lâu ngày bị nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Ngoài ra qua mệnh lệnh của quan trên tai to mặt lớn ở Hưng Sơn Tuyên đốc bộ đường đại diện cho chính quyền phong kiến thủ cựu, trì trệ cố hủy diệt tài năng của người tài để giữ giàng ngôi báu tàn bạo, độc ác của mình.
Thái độ thứ hai là yêu quý cái đẹp và quý trọng người tài. Trình bày qua tấm lòng, hành động của viên quản ngục và thầy thư lại. Họ cảm mến Huấn Cao qua lời đồn, luôn muốn biệt nhưỡng người tài và bất chấp cả nguy hiểm tới tính mệnh để có thể hoàn thành sở nguyện cao đẹp là xin chữ ông Huấn. Họ tiếc cho một thiên tài như ông lại bị đao chém pháp trường hủy diệt. Cái đẹp thì người nào cũng quý nhưng biết đẹp nhưng mà quý cũng đáng trân trọng biết bao bởi nó làm cho con người đẹp lên, phẩm chất cao hơn và thơm ngát hơn cho tấm lòng thiên lương trong sáng, thanh sạch.
Thái độ thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của bậc chính nhân quân tử, nghệ sĩ tài hoa của Huấn Cao. Điều đó được biểu thị qua tư cách và hành động của ông được tác giả khắc họa. Huấn Cao là con người đặc trưng vô tiền khoáng hậu trong trang viết của Nguyễn Tuân để lại cho tác giả sự trân trọng và nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho một con người tài giỏi, có nghĩa khí và tư cách cao đẹp lại gặp ko đúng thời, đúng vận mệnh. Huấn Cao ngày nay cũng rất nhiều nhưng ko ít người đang dần bị vùi chôn do đó lực quyền uy và sức mạnh của đồng tiền. Theo như thông tin của Bộ giáo dục ngày 17/7/2018 ở Hà Giang sau lúc thanh tra rà soát lại công việc chấm thi có 114 thí sinh bị hạ điểm vì điểm thi thông báo bị gian lận, nâng lên quá nhiều so với năng lực thực tiễn của các em. Nạn chảy máu chất xám, sắm điểm, sắm quan bán chức… đã khiến biết bao người tài có trí tuệ tài năng thực sự bị vùi dập một cách tàn bạo. Đó là nỗi đau lớn của ngành giáo dục của cả tổ quốc con người Việt Nam. Hiền tài như Huấn Cao nhưng lại bị cướp trắng trợn thời cơ để hiến dâng cho đất Việt.
Qua tác phẩm tác giả trình bày được tư tưởng của mình về nghệ thuật và phẩm giá con người. Tư cách đẹp là sự liên kết giữa cái tài và cái tâm và cái đẹp luôn phải gắn liền với cái thiện ko thể tách rời, bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp ko chỉ được thông minh ra ở nơi thanh tao, sạch sẽ nhưng mà ngay ở trong môi trường của cái xấu và cái ác nó cũng luôn tồn tại nhưng ko vì thế nhưng mà lụi tàn trái lại càng nó càng tỏa sáng rực rỡ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có cái đẹp mới có thể cảm hóa được tâm hồn con người làm cho chúng trở thành tốt hơn, cao đẹp hơn ở trên đời.
Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với văn pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật cụ thể, tỉ mỉ gây ấn tượng thâm thúy. Nguyễn Tuân phải là một con người yêu quý và trân trọng tài năng, cái đẹp vô cùng mới có thể viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” với sự hiện thân của hai con người có tư cách cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục hay tới thế.
Bài văn mẫu số 4: Phân tích Chữ người tử tù
Bước vào văn đàn Việt Nam, ta ko khỏi ngỡ ngàng bởi cái đẹp hiện hữu khắp mọi nơi, man mác khắp các trang văn: “man mác khắp vũ trụ” (Thạch Lam). Tới với những trang viết của Nguyễn Tuân- “một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”, ta bắt gặp một cuộc gặp mặt, một cuộc hội ngộ của cái đẹp trong hoàn cảnh đề lao u tối, tàn nhẫn. Đó là cuộc gặp mặt của những tư cách đẹp, những con người biết tạo ra và trân trọng cái đẹp trong cuộc đời.
Người nào đó đã cho rằng: “suy tưởng về cái đẹp là nét nổi trội trong sáng tác của Nguyễn Tuân”. Thật vậy, cái đẹp như một chất xúc tác kì diệu và tới lúc bước vào trang viết của Nguyễn Tuân thì được phát lộ, tỏa sáng lạ thường. “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp mặt của cái đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục, cuộc gặp mặt khác thường của hai con người khác thường giữa chốn ngục tù. Bởi sự say mê và ngưỡng mộ, ngục quan – kẻ nắm giữ uy quyền trong nhà lao đã lặng thầm biệt đãi Huấn Cao-người tử tù nổi tiếng bởi tài hoa và khí phách phi thường. Đó cũng là cuộc gặp mặt đặc trưng, một cuộc gặp mặt chưa từng có bao giờ của một kẻ tù nhân phạm tội với một người đại diện cho pháp luật và uy quyền. Nhưng ở địa hạt của cái đẹp, họ là những tư cách đồng dạng là những con người biết sinh thành và nuôi dưỡng cái đẹp trong cuộc đời. Xét tới cùng “Chữ người tử tù” là cuộc hội ngộ của những tư cách cao đẹp bị tù tội bởi bạo lực, hoàn cảnh, là hiện thân của cái đẹp trong cuộc sống này!
Người đã thai nghén, sinh vì vậy cái đẹp trong “Chữ người tử tù” ko người nào khác, chính là Huấn Cao – “là người của vùng tỉnh Sơn”, “viết chữ rất nhanh, rất đẹp” và “có chữ ông Huấn nhưng mà treo là có một báu vật trên đời”. Tiếng thơm của người nghệ sĩ đó đã được ngợi ca qua những khát khao và sự ngưỡng mộ của quản ngục. Truyền tụng tài hoa của Huấn Cao, coi những con chữ của Huấn Cao là tác phẩm vô giá, Nguyễn Tuân đã gửi gắm lòng yêu quý cái đẹp và sự trân trọng văn hóa cựu truyền dân tộc, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và ý thức dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những trị giá văn hóa cựu truyền dân tộc”. Song người nào đó đã cho rằng “Huấn Cao là sự nổi loạn của cái đẹp”. Quả ko sai bởi Huấn Cao ko chỉ phát lộ cái đẹp của thiên lương nhưng mà còn tỏa sáng cái đẹp tỏa sáng của người người hùng đầy khí phách. Trong hoàn cảnh đề lao nhưng khí phách của ông vẫn ko bị nguội lạnh, ông đã dám chống lại triều đình phong kiến, ông tỏ thái độ khinh thường, bất chấp trò tiểu nhân thị uy của bọn lính canh, thái độ cao ngạo, khinh bạc trước sự biệt đãi của quản ngục. Đó như là lời thử thách với cường quyền bạo lực. Lúc ngục quan khép nép hỏi ông Huấn: “ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ quyết tâm chu cấp.” Ông Huấn đã trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Lời nói đó như một gáo nước lạnh nhưng lại làm quản ngục thêm phần kính nể Huấn Cao. Đó hẳn phải là khí phách của một trang nam nhi chọc trời khuấy nước. Cách hành xử của Huấn Cao cho thấy dù ở trong hoàn cảnh nào ông vẫn hoàn toàn tự do về tư cách. Sự lễ phép và khúm núm cả viên quản ngục càng tô đậm tầm vóc kì vĩ, vẻ đẹp hiên ngang của ông Huấn. Huấn Cao ko vì quyền thế hay tiền nong nhưng mà ép mình cho chữ bao giờ. Cả đời ông cũng chỉ cho chữ ba người bạn thân. Nhưng lúc biết được tâm tư và tấm lòng của người quản ngục, Huấn Cao đã đột ngột thay đổi: “nào ta có biết đâu, một người như thầy Quản đây lại có những thị hiếu cao quý tương tự. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong người đời.” Huấn Cao đã nắm bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lương và việc cho chữ là việc “một tấm lòng ta đền đáp một tấm lòng trong người đời”, là hành động đền đáp một tấm lòng trong người đời. Huấn Cao chính là sự hiện diện của cái đẹp toàn diện, “sự tỏa sáng của những tấm lòng” xuyên suốt “Chữ người tử tù”. Lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân Huấn Cao đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp thiêng liêng, tao nhã của nền văn hóa cựu truyền, kết tinh tinh hoa dân tộc. Yêu quý, ngợi ca và tiếc nuối những con người như ông Huấn, Nguyễn Tuân đã gián tiếp bộc bạch tấm lòng của mình với những trị giá nghìn xưa đồng thời bộc bạch quan niệm thẩm mĩ tiến bộ: cái đẹp, cái thiện xoành xoạch song hành và làm nên tư cách con người. Người nào đó đã cho rằng: “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với người đời”. Nhấp nhoáng đâu đó trong bóng vía của người tử tù ta cũng thấy cái nét “ngông” vừa cổ điển, vừa kế thừa truyền thống tài hoa của thế hệ trước, một cái ngông xoành xoạch muốn phản ứng lại hiện thực xã hội đương thời, một cái ngông chỉ xuất hiện trong những trang viết của Nguyễn Tuân.
Đằng sau sự tài hoa của Huấn Cao, nhân vật quản ngục xuất hiện như hiện thân của niềm say mê, trân trọng cái đẹp. Đó như một phép màu kì diệu biến quản ngục thành “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Tâm nguyện cả đời của quản ngục, ko gì hơn, đó là có được chữ của ông Huấn để treo ở nhà riêng. Tâm nguyện đó bỗng chốc biến viên quản ngục đẹp như một người nghệ sĩ thực thụ, biết say mê, biết hướng về cái đẹp đúng như Ralph Waldo Emerson cho rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính”. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao, xoành xoạch kính cẩn và lễ phép trước thái độ kiêu ngạo của ông Huấn, thành kính đón nhận những lời khuyên của ông. Chính điều đó đã mở đường cho quản ngục tới với cái đẹp. Tư thế khúm núm, thái độ và hành động bên ngoài có vẻ ủy mị lúc lắng tai lời khuyên của Huấn Cao đã làm sáng lên vẻ đẹp tư cách của ngục quan, làm cho nhân vật trở thành đáng quý, đáng trân trọng. Đặc trưng, ông còn cúi đầu thành kính đón nhận lời khuyên của ông Huấn. Ông cúi đầu nhưng ko hề trở thành hèn kém nhưng mà trái lại, nó còn làm cho ông trở thành cao thượng hơn bao giờ. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng: “Có những cái cúi đầu làm cho con người trở thành hèn kém, có những cái cúi lậy làm con người trở thành ti tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm con người trở thành cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương”. Và cái cúi đầu của quản ngục cũng thật cao đẹp chẳng khác nào cái cúi đầu của Cao Bá Quát lúc xưa: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Cả đời sinh ra chỉ để cúi đầu trước hoa mai). Nếu Huấn Cao là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm thẩm mĩ tiến bộ thì quản ngục là nơi nhà văn gửi những quan niệm nhân sinh thâm thúy: Bản thân mỗi con người luôn khát khao và hướng về cái đẹp. Bởi vậy, phải biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng của thiên lương. Và hơn cả, cái đẹp “man mác khắp vũ trụ”, nó tồn tại ngay cả trong cái ác để đẩy lùi bóng tối, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người tử tù “chính là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có bao giờ, đặc trưng là trong hoàn cảnh đề lao, nơi “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, cái đẹp vẫn ngang nhiên được sinh thành. Ta ngỡ ngàng lúc thấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng tối của nhà tù thực dân đã bị đẩy lùi bởi ánh sáng của tài hoa, thiên lương, nhường chỗ cho cái đẹp được sinh thành. Cái đẹp đã trở thành tác nhân làm xáo trộn ý thức xã hội, nó được khai sinh trên một mảnh đất chết, từ bàn tay của người tử tù sắp chết nhưng vẫn phát lộ rực rỡ và có sức cảm hóa mãnh liệt. Lời khuyên của quản ngục dành cho người tử tù đã trình bày một quan niệm thâm thúy về nghệ thuật: Cái đẹp ko bao giờ chung sống với cái ác, mãi mãi là tương tự. Đó cũng là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về sức mạnh của cái đẹp, cái đẹp sẽ cứu rỗi toàn cầu này!
Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Đọc văn Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy một hứng thú đặc trưng: sự trầm lặng trong ý tưởng, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam”. Thật vậy, cái hứng thú đặc trưng đó ko chỉ toát lên từ tác phẩm nhưng mà còn toát lên từ hình thức nghệ thuật lạ mắt. Ông sử dụng văn pháp tương phản để dựng lên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, để tô đậm sự thắng thế của cái đẹp trong cuộc đời. Người nào đó đã cho rằng “tiếng nói của Nguyễn Tuân tuôn ra như muốn thi tài với hóa công”. Nhà văn với văn phong “đặc Việt Nam” (Vũ Ngọ) đó đã khôn khéo sử dụng những từ Hán Việt để tạo màu sắc cổ xưa, nghiêm trang cho tác phẩm, để “Chữ người tử tù” trở thành một trong những” nén tâm nhang nguyện cầu cho cái đẹp cựu truyền Việt Nam” (Văn Tâm). Câu chuyện như một thước phim quay chậm, người đọc như được chứng kiến tận mắt ánh sáng được nhen lên, tỏa sáng và che đi bóng tối. Và các nét chữ hiện hình “như một nét bút trác việt được chạm khắc tinh xảo trên mặt ruby của ngôn từ”.
“Chỉ người suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, bởi văn Nguyễn Tuân ko phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Bởi vậy, lúc tới với chữ người tử tù, hãy từ từ đón nhận ánh sáng của cái đẹp để thanh lọc tâm hồn, để thấu hiểu và cảm nhận…” Chữ người tử tù ko chỉ “vang bóng một thời” nhưng mà còn vang bóng mãi muôn sau.
Bài văn mẫu số 5: Phân tích Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói tới Nguyễn Tuân là nói tới một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác việt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt ruby của tiếng nói (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác việt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Huấn Cao là nhân vật khá tiêu biểu cho văn pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có tức là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp xuất sắc nhất. Cho nên nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu thị cho những gì nhưng mà nhà văn ước mơ, khát khao. Huấn Cao là thế. Từ đầu tới cuối, ông xuất hiện như một con người phi thường. Từ tài hoa tới thiên lương, từ thiên lương tới khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất trước hết của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc hội thoại của hai nhân vật quản ngục và thư lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cừ khôi của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn thể những tâm nguyện sâu xa của mình. Cho nên mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Cho nên mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao trình bày tư cách Huấn Cao. Nó quý giá ko chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm nhưng mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng vẫy vùng của một đời con người. Chính vì thế nhưng mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao ko chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.
Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của tư cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường ko làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã trình bày sự khinh bỉ ko cần giấu giếm, tới lúc nhìn thấy viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn nhưng mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất hối lỗi. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong người đời. Câu nói đó đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một tư cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.
Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho xuất sắc thậm chí tới mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã làm cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp ko thành, ông lĩnh án xử tử. Nhưng tù đày, gông xiềng và cái chết cùng ko khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi nhưng mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và lúc quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc tới điều… lời nói của ông có thể là nguyên do để ông phải rước lấy những trận trả nủa. Nhưng một lúc đã nói tức là ông ko hề run sợ, ko hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường quật cường, uy vũ bất năng khuất.
Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng nhưng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu thị sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.
Muốn hiểu được trị giá thâm thúy của cảnh cho chữ cho chúng ta ko thể ko nói tới quá trình dẫn tới cảnh cho chữ đó. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện sẵn sàng cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu ko có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Cho nên phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn thể câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn thể câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc trưng. Đó là cuộc gặp hết sức oái oăm của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp mặt là nhà tù, thời kì là những ngày cuối cùng trước lúc ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở thành ngặt nghèo, giận dữ, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về phương diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thiết chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể đó. Nhưng về phương diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri kỉ: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn nghĩa vụ của một viên quan thì phải giày đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức vụ của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.
Với một tương quan tương tự, quan hệ giữa họ thuở đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là thời cơ cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những người nào ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như ko thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu cách trở. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền nong. Nhưng Huấn Cao ko phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực ko ép được ông cho chữ, tiền nong ko sắm được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã làm cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn tới cảnh cho chữ.
Vậy là việc Huấn Cao cho chữ ko giống như việc trả nợ một cách tầm thường, ko giống việc một kẻ sắp bị xử tử đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng ko phải là thời cơ cuối cùng nhưng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về thực chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.
Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, tử tế thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi rình, dơ dáy. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc toàn cầu tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành quyết. Đặc trưng ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở thành đầy quyền uy lúc chuyên chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự thắng lợi của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, thắng lợi hoàn toàn cái xấu. Trong những con người đó lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối.
Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, thắng lợi mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi vong linh con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ ko mất đi ngay cả lúc nó bị vùi dập. Đó là trị giá nhân văn của tác phẩm.
Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi trội hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự thắng lợi của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống tiếng nói cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện mang lại cho truyện bầu ko khí và nhịp độ của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.
Bài văn mẫu số 6: Phân tích Chữ người tử tù
Thi sĩ nổi danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Có nhẽ từ lâu nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên nhưng mà cả cuộc đời ông là một chặng đường say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ rất thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn với thời kì.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, quê ông ở làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi hồn vào trong các tác phẩm của mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của ông gồm có : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên ngang, quật cường, cho dù là chí lớn ko thành nhưng ông cũng ko bao giờ gục ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh gục tù tối tăm, u uất.
Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là tới từ tình huống truyện rực rỡ, đó chính là chiếc chìa khoá thúc đấy tình tiết dâng lên cao trào như cách nhưng mà Nguyễn Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc nhưng mà trong đó sự sống xuất hiện rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực đối lập. Một bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, một bên là quyền lực u tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp mặt diễn ra đầy kịch tính, thu hút người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.
Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù thực tại xã hội có dở bẩn ra sao cũng ko thể nào làm vướng bẩn tư cách thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – một vị người hùng sa cơ, thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bình cho chính mình. Đó thế nhưng mà trong con mắt của cơ chế phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu nguy hiểm cần phải xoá sổ. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân thông minh hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – một người tài hoa, nghệ sĩ, ý thức quả cảm và đặc trưng là có tài viết chữ đạt tới độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính trọng, là một người mang họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học ở một huyện.
Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua nhiều phương diện để thấy được cái vẻ đẹp thanh cao đạt tới chân – thiện – mỹ của một người tài hoa hàng đầu. Trước tiên, nhà văn mô tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa, nổi danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thư lại, là người nhưng mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, ko những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”. Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là một người “văn võ song toàn”, tụ hội tất cả những khí chất của một người người hùng tài hoa. Tác giả giới thiệu Huấn Cao với lối mô tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khôn khéo, toàn vẹn ông muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự nhiên nhưng mà ko đường đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, lúc nhắc tới tên tuổi cả viên quản ngục hay thầy thư lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được bộc lộ rõ nét nhất lúc viên quản ngục bất chấp nguy hiểm, chỉ với kỳ vọng có được chữ của ông, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm” chỉ cần có một vài câu đối của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã toại nguyện” bội phần, dường như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.
Huấn Cao còn là vị người hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một tí sợ hãi vẫn giữ cho mình tư cách thanh cao, ko nhún nhường trước cường quyền tào bạo. Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao yên lặng “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” một hành động dứt khoát như là lời cảnh báo cứng ngắc của người tử tù với bọn nha sai hống hách, cậy quyền. Trong ngục tù u tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thật là hiếm có người tù nào sắp chết nhưng mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, điềm nhiên được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc cơ chế xã hội tàn bạo dù biết trước sẽ phải đối đầu với một trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo” thế nhưng người người hùng cũng không thể dối lòng “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói thẳng thắn như gáo nước lạnh tạt thẳng vào khuôn mặt phong kiến. Nguyễn Tuân còn mô tả người người hùng kiên cường mang tấm lòng thiên lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh tiền ko bao giờ ham phù hoa, lợi danh nhưng mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm cái đẹp thanh cao phải được trao cho đúng người mới phát huy được hết trị giá của nó. Huấn Cao đã bị cảm động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục. Tấm lòng nhân hậu ko muốn phụ “một tấm lòng trong người đời”.
Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm một tuyến nhân vật viên quản ngục, một người thích thú cái đẹp, tâm hồn tài hoa nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng thời hai nhân vật chính diện song song soi chiếu cho nhau toả sáng với vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Như cách nhưng mà tác giả nói “Ông trời nhiều lúc chơi ác, đem đày cửa ải những cái tinh khiết vào giữa một đống cạn bã”. Thật đáng trân trọng sống giữa một xã hội rối ren, tao loạn nhưng mà vẫn giữ cho tâm hồn mình ko vị vùi lấp trong bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết nể trọng người tài, là người dũng cảm bất chấp nguy hiểm.
Vào một đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong buồng giam u tối, chật hẹp, mùi ẩm thấp bốc lên, xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thốc của phân chuột, phân gián. Trong ko khí khói toả, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy hừng hực. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thư lại “run run bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng dưng khép nép, kính cẩn trước một tử tù. Cái đẹp ko lẻ loi đơn độc, nó ko tồn tại cùng cái xấu xa nhưng mà thắng lợi chúng, nhân đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.
Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “sắp tới sự toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm trình bày phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo dựng thành công tình huống truyện lạ mắt, khắc hoạ tính cách nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản gay gắt, tiếng nói trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, trình bày lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.
Bài văn mẫu số 7: Phân tích Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân trước Cách mệnh tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu tới say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của tư cách con người. Ông truy lùng cái đẹp ko tiếc công sức. Ông mô tả cái đẹp bằng kho tiếng nói giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.
Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc trưng, phi thường. Ông phát hiện, mô tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn liên kết mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Trị giá tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được trình bày chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu thi sĩ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để thông minh ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước lúc trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa trình bày lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn ý thức nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội đó. Trên phương diện nghệ thuật họ là tri kỉ tri kỉ, trên phương diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính đó, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được trình bày một cách thâm thúy.
Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế nhưng mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao khinh thường tiền nong và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây nhưng mà lại có những thị hiếu cao quý tương tự”. Viên quản ngục cũng ko dễ gì thu được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời thâm thúy và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong người đời”.
Coi khinh cường quyền và tiền nong, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có thị hiếu cao quý. Những con người đó theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần tới ngày xử tử vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một người hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm đó, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng tiêu, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất lộn xộn phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý mô tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, dơ dáy của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm ghi lại ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở thành lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở thành nhỏ nhỏ, thụ động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại ko diễn ra trong trai phòng, thư sảnh, nhưng mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi rình.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi trội lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù u tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, ko phải cái ác, cái xấu đang thống trị nhưng mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục u tối đã đổ sụp, bởi vì ko còn kẻ phạm tội tử tù, ko có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang thông minh cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng tinh khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị xử tử, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão vẫy vùng cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ tồn tại. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Kế bên hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong người đời. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn nhưng mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực ko phải là sự quỵ lụy hèn kém nhưng mà là thái độ chân tình khiến ta có thiện cảm với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Văn pháp điêu luyện, sắc sảo lúc dựng người, dựng cảnh, cụ thể nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Tiếng nói Nguyễn Tuân biến hóa, thông minh, có hồn, có nhịp độ dư ba. Một ko khí cổ xưa nghiêm trang đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
“Chữ người tử tù” ko còn là “chữ” nữa, ko chỉ là Mỹ nhưng mà thôi, nhưng mà “những nét chữ tươi tỉnh nó nói lên những hoài bão vẫy vùng của một đời người”. Đây là sự thắng lợi của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự thắng lợi của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự thế tục nhơ bẩn, cũng là sự thắng lợi của ý thức quật cường trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao tư cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.
Bài văn mẫu số 8: Phân tích Chữ người tử tù
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc đời mình để săn tìm cái đẹp hướng tới chân – thiện – mỹ. Ko thể phủ định được những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” là truyện ngắn rực rỡ ghi lại tài năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mệnh tháng Tám và được coi là một tác phẩm gần như đạt tới độ hoàn mĩ.
Ở cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung mô tả, tô đậm vẻ đẹp của người người hùng Huấn Cao, qua cụ thể đó tác giả muốn khẳng định sự thắng lợi của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt giá nhất xưa nay chưa từng có.
Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những người có học vấn, các sĩ tử,… Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy tạo điều kiện cho tâm hồn của con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được tổ chức ở những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn xúc cảm, rồi từ đó có những nét chữ uyển chuyển trong đó có cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự thông minh của Nguyễn Tuân thì cảnh cho chữ là một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội xưa cũ và cho tới hiện thời chúng ta vẫn gọi đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhưng chính cụ thể lạ lùng đó đã làm cho trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức thu hút và quyến rũ cho độc giả.
Ko gian và thời kì trong cảnh cho chữ được tác giả mô tả rất sinh động và chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, lúc bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi đây. Cùng với tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên một cách chật hẹp, tù túng, ẩm thấp, mỏi mệt và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. Một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác giờ đây lại bị giam trong nhà tù u tối, thế nhưng tại chính nơi hạ đẳng, u tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.
Một ko gian u tối ko thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong quang cảnh tương tự có ba người “đang chuyên chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chuyên chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và người nhận chữ – viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một cụ thể nhỏ này thôi tác giả đã bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi u tối.
Có nhẽ vì đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra đột nhiên như chậm lại, làm cho trái tim con người rung động, như có một thứ gì đó bóp nghẹt, ko người nào nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm thu được niềm hạnh phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù túng này. Ta có thể thấy lạ, là một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Lúc nét chữ cuối cùng đã viết xong Huấn Cao thở dài buồn phiền, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt lăn dài trên má ông chính là những giọt nước mắt trình bày sự tiếc thương cho số phận người người hùng đầy khí phách Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, ở bất kỳ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí là tồn tại ko đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người tốt có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác hoành hành trở về đúng trục đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm thu được rằng tác giả là người giàu tri thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và lạ mắt. Chính vì vậy nhưng mà tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối lập nhau gay gắt, một bên là màu của quang cảnh u tối nơi ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.
Kết tinh bởi tài năng, thông minh và tư tưởng lạ mắt Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã trình bày sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn hướng tới cái chân – thiện – mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khôn khéo bộc bạch tấm lòng của mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận người người hùng nhân hậu, khí phách và có tư cách cao thượng.
CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải các bài văn mẫu: Phân tích nhận định tác phẩm Chữ người tử tù Văn lớp 11 file word, pdf hoàn toàn miễn phí.
Bạn thấy bài viết Top 8 bài văn hay: Phân tích bài Chữ người tử tù lớp 11 chọn lựa có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Top 8 bài văn hay: Phân tích bài Chữ người tử tù lớp 11 chọn lựa bên dưới để yt2byt.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường Cao đẳng Kỹ thuật Y tế II
Phân mục: Soạn Văn 11
Nguồn: yt2byt.edu.vn
#Top #bài #văn #hay #Phân #tích #bài #Chữ #người #tử #tù #lớp #chọn #lọc